Trong khi Thái Lan đang kinh doanh lớn nhờ xuất khẩu phở Việt, nước dừa Châu Đốc thì doanh nghiệp Việt hoàn toàn bỏ trống thị trường này.
4 tháng trước, dư luận xôn xang trước câu chuyện tập đoàn Charoen Pokphan Foods Plc (CPF) của Thái Lan đã xuất khẩu hàng triệu gói phở Việt sang Mỹ. Vẫn chưa định hình được các giải pháp ứng phó thì mới đây, ngay cả nước dừa mang nhãn CHAUDOC của Thái Lan cũng bán rất chạy tại các chợ Việt ở nước Mỹ.
Sản phẩm phở Việt và nước dừa nhãn Chau Doc đang bán rất chạy tại các chợ Việt ở nước ngoài.
Thị trường bị bỏ trống
Charoen Pokphan Foods Plc (CPF) cho biết: Phở của công ty bán rất chạy tại châu Mỹ, và thị trường vẫn rất rộng mở. Viện nghiên cứu nhập cư Mỹ cho hay, tính đến năm 2014, có 8.900 cửa hàng phở Việt Nam tại Mỹ và con số này nối tăng. Phở Việt Nam cùng với pizza Ý, bánh burritos Mexico và sushi Nhật Bản trở nên một trong những món ăn được chuộng nhất tại Mỹ. vì thế, ban sơ CPF chỉ dự tính mở một văn phòng thương mại, nhưng đến giờ đã xây dựng hẳn nhà máy tại Mỹ với sản lượng 2 triệu sản phẩm mỗi ngày, phân phối trong các siêu thị, kênh bán buôn lớn như Walmart, Costco, Kroger, Amazon...
Còn nước dừa đóng lon hiệu “CHAUDOC” lại đi theo ngách khác: thâm nhập vào các khu chợ bình dân dành cho người Việt. Con số nghiên cứu của Statista cũng cho thấy một thị trường rộng mở: doanh số nước dừa của Mỹ năm 2015 đạt 778 triệu USD và sẽ đạt gần 2 tỉ USD vào năm sau.
Trên toàn cầu, thị trường nước dừa tăng trưởng 25,4% mỗi năm đến năm 2019. Số liệu của Hiệp hội Dừa châu Á - thăng bình Dương (APCC) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp liên hiệp quốc (FAO) cho biết, châu Á chiếm 85% diện tích trồng dừa toàn thế giới. Năm ngoái, tổng giá trị xuất khẩu dừa Việt Nam khoảng nửa tỷ USD. Tỉnh Bến Tre chiếm hơn 40% diện tích dừa cả nước và đóng góp 36% giá trị xuất khẩu (khoảng 180 triệu USD).
giả dụ với những mặt hàng đã từng bị tranh chấp thương hiệu với nhà buôn nước ngoài trước đây như kẹo dừa Bến Tre, nước mắm Phú Quốc, cà phê Trung Nguyên… chúng ta có cơ sở để chống chọi đòi thương hiệu, vì đây là những thương hiệu được Việt Nam xây dựng và phát triển trên thị trường trong nước và nước ngoài, thì với việc Thái Lan xuất khẩu phở Việt, nước dừa Châu Đốc, chúng ta chẳng thể làm gì.
Rõ ràng, doanh nghiệp Việt Nam đang để trống hẳn một mảng sản phẩm: đó là thực phẩm tươi đóng gói ăn liền. Lâu nay, tuồng như trong tư duy của doanh nghiệp Việt Nam, chế biến nông phẩm, gia tăng giá trị cho sản phẩm nông sản thực phẩm mới chính yếu dừng lại ở công nghệ sấy khô, dễ bảo quản. Tính đến nay, Việt Nam mới chỉ có một số ít tiếng tăm tham dự thị trường này như Sài Gòn Food, CJ Cầu Tre...
Một doanh nghiệp khác là Minh Hưng Group có tham vọng dùng công nghệ xử lý áp suất cao để sinh sản các loại thực phẩm như phở, bún bò hay nước mía, nước thanh long, dưa hấu… Thực phẩm là một trong những mặt hàng mà Việt Nam có thể đẩy mạnh xâm nhập vào thị trường Philippines. Liệu doanh nghiệp có phá hoang được dịp này, hay lại để rơi vào tay những đối thủ cạnh tranh khác?
Thiếu sự vậy từ doanh nghiệp?
Liệu đây có phải là “lỗi kỹ thuật” hay nói cách khác là công nghệ chế biến Việt Nam không đáp ứng được? Theo khẳng định của các chuyên gia công nghệ thực phẩm, công nghệ chế biến thực phẩm, công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường, nhưng vấn đề là doanh nghiệp và nhà khoa học chừng như chưa gặp nhau. Đó là chưa kể, không phải doanh nghiệp nào cũng tha thiết với việc đổi mới công nghệ để phát triển.
tấn sĩ Trần Đình Nam, ĐH Công nghệ Sài Gòn cho rằng, vấn đề không phải là công nghệ mà là chũm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt đang bỏ trống nhiều mảng thị trường. Ví dụ như chơi chỉ phở mà Thái Lan còn xuất khẩu cả mắm nhỉ của Việt Nam...
Tương tự, ông Nguyễn Xuân Bang, chuyên gia về phát triển hệ thống và giải pháp cho Công nghệ sau thu hoạch và chế biến thực phẩm, khẳng định, về mặt công nghệ, giữa Việt Nam và Thái Lan không có khoảng cách. Việt Nam có đủ điều kiện để có thể sinh sản và xuất khẩu những sản phẩm như vậy.
Vậy vướng mắc do đâu? Theo ông Nguyễn Tiến Vượng, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty thương nghiệp - công ty cổ phần, thì doanh nghiệp Việt Nam chưa đích thực nghĩ đến việc đưa những sản phẩm chế biến sâu vào thị trường các nước trên thế giới. Thái Lan có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam cần dự sâu hơn vào các hội chợ triển lãm, các kênh phân phối nước ngoài để tìm hiểu được nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
Ở góc độ thương nghiệp, thị trường, ông Vũ Vinh Phú, chuyên gia thương mại cho rằng: “Về giác độ cá nhân, tôi thấy buồn. đương nhiên việc doanh nghiệp Thái Lan làm được như vậy là kinh nghiệm chúng ta nên học tập, đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước cần sẵn sàng để có thể bảo vệ thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế...”.
Dù có thể chỉ ra nhiều nguyên do khách quan, nhưng rõ ràng doanh nghiệp cần chủ động và cầm cố mới phá hoang được mảng thị trường đang bị bỏ trống này.
Theo Thu Thùy
VOV
0 nhận xét:
Đăng nhận xét